Một ngọn lửa làm bùng lên nhiều ngọn lửa
Trong gần 5  thế kỷ, Dòng Tên đã mang lửa vượt ngàn trùng biển khơi, đến mọi dân tộc,  mọi quốc gia. Với Giáo hội Việt Nam, năm 1615, các tu sĩ Dòng Tên đã  xuyên qua đại dương, mang ngọn lửa Tin Mừng đến quê hương Đại Việt. Và  rồi, hoa trái đầu mùa trên quê hương ấy, Á Thánh Anrê Phú Yên, một anh  hùng đức tin 19 tuổi, thắp lên ngọn lửa đầu tiên, để rồi sau đó, hàng  triệu ngọn lửa bùng cháy. 
Khi mang lửa  Tin Mừng đến những vùng đất mới, các tu sĩ Dòng Tên chú trọng đến văn  hoá bản địa và quý trọng sự cộng tác của dân địa phương trong công cuộc  rao giảng Tin Mừng. Cũng trong tinh thần này, Cha Đắc Lộ, một tu sĩ Dòng  Tên và cũng là người có công lớn nhất trong việc hình thành chữ viết  cho quê hương Việt Nam, thiết lập Hội Thầy Giảng. Hội Thầy Giảng có thể  được xem là nền móng cho sự xây dựng Giáo hội Việt nam. Anrê Phú Yên  được nhận vào “Hội Thầy Giảng” ở xứ Nam cùng với chín thanh niên khác,  những người này được chọn lựa trong lớp ưu tú của giáo đoàn sơ khai lúc  đó. Theo lời Cha Đắc Lộ: Thầy giảng Anrê Phú Yên rất thông minh, tính tình hiền hậu, đơn sơ, chất phác, thanh bạch, quên mình lo giúp đỡ mọi người (x. Alexandre Rhodes, Glorieuse mort du catheschiste André, tr. 76-78). 
Hôm đó vào  quãng trưa, quân lính lùng sục bắt Thầy Inhaxiô, một trong hai trưởng  nhóm của Hội Thầy Giảng. Anrê Phú Yên mạnh dạn ra mặt hỏi bọn lính và  nói: “Nếu các anh muốn bắt Inhaxiô thì vô ích, vì Inhaxiô không có ở  nhà. Nếu muốn bắt tôi thì tôi sẵn sàng: tôi là giáo hữu, hơn nữa là thầy  giảng, tôi có cả hai tội mà các anh gán cho Inhaxiô để bắt thầy ấy. Vậy  thầy ấy mà có tội, thì làm sao tôi vô tội được” (Alexandre de  Rhodes, Glorieuse mort du cathèchiste André, tr. 11). Thầy Anrê bị bắt,  nhưng lạ thay thầy bước đi giữa quân lính trong niềm hân hoan vui sướng.  Thầy không quên bổn phận của mình là phải rao giảng đức tin. Ngay trong  hoàn cảnh đang bị đưa về lao tù, khi xuống thuyền, thầy đã giảng cho  bọn lính về Đức tin. Bọn lính ngơ ngác nhìn nhau cảm động, chính những  lời giảng dạy ấy mà quan Nghè Bộ dựa vào đó để kết tội thầy trong khi  không bắt được Thầy Inhaxiô.
Quân lính  điệu Thầy Anrê đến quan Nghè Bộ, vị quan này tưởng Anrê trẻ tuổi non dại  không có đủ gan dạ, thế nào mình cũng thuyết phục được, quan nói: Đã trót theo “tả đạo”, vậy hãy từ bỏ, quan sẽ giúp đỡ, nếu không quan có cách khiến cho hối không kịp. Đáp lại một cách đơn sơ nhưng đầy hào khí, Anrê Phú Yên nói: “Quan và cả bộ hạ có thể giết tôi về phần xác dễ dàng nhưng không thể làm lay chuyển Đức tin và lòng mến Chúa trong tâm hồn tôi”.  Quan Nghè Bộ thấy thái độ kiên quyết của Thầy giảng Anrê Phú Yên, vô  cùng tức giận. Không nói lại nửa lời, quan lệnh cho lính đeo gông vào cổ  Anrê Phú Yên, tống giam vào ngục, ngày mai sẽ quyết định. Sáng hôm sau  26-7-1644, quan Nghè Bộ triệu tập phiên toà chớp nhoáng. Kết thúc phiên  toà là án tử dành cho hai giáo hữu cùng tên Anrê: một người đã 73 tuổi,  còn người kia là vị anh thanh niên 19 tuổi đời. Người giáo hữu 73 tuổi  cuối cùng thì được tha, vì đã tuổi già sức yếu, nhưng Anrê Phú Yên thì  chịu án tử hình.
Những ngày  trong lao tù, có nhiều người tới thăm vị thanh niên này: già trẻ lớn bé,  cả người bên lương. Thầy giảng Anrê Phú Yên đón tiếp mọi người rất niềm  nở, thầy nói: “Anh chị em, đối với Chúa Giêsu rất yêu dấu của ta, ta  hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu đau khổ vì ta, ta hãy  lấy mạng sống đáp lại mạng sống”. 
Trong cùng  ngày tuyên án, Cha Đắc Lộ thăm Thầy Anrê và ôm hôn thầy, hôn thánh giá  của thầy, với đôi dòng lệ tuôn trào, không sao nói được nửa lời. Thầy  giảng Anrê Phú Yên nói lớn tiếng: “Tôi là kẻ có tội”, xin mọi người cầu cho tôi được chịu khó cho tới chết. Đầy lòng tin cậy, Thầy nói tiếp: Tôi chẳng sợ cơn điên dại của kẻ dữ, chỉ có thể giết mình phần xác, tôi chỉ sợ Đức Chúa Trời có quyền phạt cả hồn lẫn xác (x. Alexandre de Rhodes, Relation Progès Foi, tr. 31). 
Thầy đã thắp  lên ngọn lửa của Chúa Giêsu trong lòng những người đến thăm thầy: ngọn  lửa Tin Mừng, ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa tha thứ, và đặc biệt, ngọn  lửa hăng say sống cho Đức tin và chết cũng cho Đức tin. Thầy Anrê không  hề run sợ trước cái chết đang chờ, thầy hân hoan và ngóng chờ giây phút  ấy, giây phút thầy được cùng với chư thánh trên trời hội ngộ: Tôi  tưởng như cửa thiên đàng đã mở ra cho tôi. Tôi thấy Chúa Giêsu đang đứng  trước cửa đón tôi, bao nhiêu thánh Tử đạo giơ cho tôi mũ triều thiên và  cành thiên tuế. Ôi Thiên Đàng! Hạnh phúc dường bao! Tại sao người ta  trì hoãn lâu thế” (Alexandre de Rhodes, Glorieuse mort glorieuse d’Andé, tr. 46).
Vào khoảng 4  giờ chiều, một tên lính cho Thầy giảng Anrê Phú Yên biết sắp tới giờ đi  xử, hãy chuẩn bị ăn đi, kẻo không kịp. Cha Đắc Lộ khuyên thầy dùng chút  của ăn để có sức ra pháp trường. Thầy giảng Anrê Phú Yên ăn một vài cái  bánh, uống một ly nước, rồi nói: “Thế là đủ lắm rồi, chẳng cần gì hơn nữa, để dành ăn tiệc thánh trên thiên đàng”. 
Quân lính  đưa thầy ra pháp trường. Thầy giảng Anrê Phú Yên biết giây phút cuối  cuộc sống trần thế của mình đã đến, thầy quay về phía giáo hữu để từ giã  lần chót với những lời thiết tha: “Xin anh chị em hãy trung thành với Chúa tới chết, không một điều gì có thể giập tắt lòng kính mến Chúa Kitô trong trái tim ta” (Alexandre de Rhodes, Glorieuse mort d’Andre, tr. 53).
Thầy đã bị  xử rơi đầu vì Đức tin, Cha Đắc Lộ đã mang đầu của thánh nhân về Rôma, và  hiện đang được cất giữ cẩn thận tại nhà Trung ương của Dòng Tên. Ngọn  lửa Đức tin Công giáo tại quê hương Việt Nam đã được thắp lên, và rồi,  kế tiếp ngọn lửa ấy, ngàn ngàn ngọn lửa tiếp theo. Biết bao con người  Việt Nam đã anh dũng tuyên xưng Đức tin, biết bao dòng máu đào đã tưới  đẫm quê hương Việt vì Đức tin, để rồi từ đó cho một mùa gặt dồi dào.  Anrê Phú Yên đã nằm xuống, nhưng ngọn lửa Ngài đã làm bùng lên luôn cháy  mãi.
Ngày 5-3 Năm Thánh 2000, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong Anrê Phú Yên lên bậc chân phước.
Mọi góp ý cho chuyên mục LỬA xin gởi về địa chỉ noilualenrv@gmail.com
RADIO VATICAN
CHUYÊN MỤC: LỬA
NGƯỜI VIẾT: Nguyễn Hiền Nhu
0 nhận xét:
Đăng nhận xét